Đặng Tiểu Bình sử dụng
chiến tranh Trung-Việt để củng cố địa vị
Giang Tấn
Tuần san châu Á số
từ 11-18.7.2010 đăng bài của Giang Tấn về những ân oán trong quan hệ
Trung - Việt. Theo Giang Tấn, cuộc chiến tranh biên giới giữa Trung Quốc
và Việt Nam năm 1979 chủ yếu là do một mình Đặng Tiểu Bình quyết định
nhằm củng cố địa vị của mình.
Dẫn lời ông Nghê Sáng Huy, một người từng trải qua những năm tháng chiến tranh Trung-Việt, tác giả cuốn Mười năm chiến tranh Trung-Việt
vừa được Nhà xuất bản Thiên Hành Kiện (Hồng Công) ấn hành vào đầu tháng
6.2010, Giang Tấn cho biết vào năm 1977, Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu
tập Hội nghị Trung ương 3 khóa X, khôi phục các chức vụ lãnh đạo cho
Đặng Tiểu Bình, gồm phó chủ tịch nước, phó thủ tướng Quốc vụ viện, phó
chủ
tịch Quân uỷ Trung ương và tổng tham mưu trưởng quân đội. Một năm
sau đó, Đặng Tiểu Bình lại được bầu làm chủ tịch Chính hiệp Toàn quốc.
Cách mạng Văn hoá vừa kết thúc, Đặng Tiểu Bình muốn trước tiên phải lập
lại trật tự, thúc đẩy đường lối tư tưởng, nên đưa ra trọng điểm công tác
cho cả nước là chuyển dịch sang xây dựng kinh tế. Tuy nhiên, khi đó ở
Trung Quốc, tư tưởng tả khuynh trong, ngoài đảng và ở quần chúng vẫn
tiếp tục “trượt” theo quán tính. Đặc biệt là nhóm trong Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc do Hoa Quốc Phong cầm đầu vẫn chủ trương tiếp tục
duy trì lý luận và thực tiễn của Cách mạng Văn hoá thêm một thời gian.
Trong quân đội Trung Quốc cũng có không ít cán bộ cao cấp tỏ ra không
thông với chính sách và đường lối của Đặng Tiểu Bình. Chính vì thế, Đặng
Tiểu Bình thấy rằng muốn phá vỡ cục diện này, phải tiến hành cải cách
mở cửa. Nhưng nếu chỉ dựa vào chức vụ của Đặng Tiểu Bình khi đó thì khó
có thể xoay chuyển được tình thế, mà phải cần đến một phương thức có thể
quét sạch được mọi chướng ngại của thế lực cực tả đối với cải cách mở
cửa.
Theo ông Nghê, nếu như khi đó đưa ra
những đánh giá lịch sử về Mao Trạch Đông, phủ định đường lối “hai phàm
là” của Hoa Quốc Phong (Phàm là quyết sách Mao Chủ tịch đưa ra, chúng ta
phải kiên quyết bảo vệ; Phàm là chỉ thị của Mao Chủ tịch, chúng ta đều
phải tuân thủ trước sau như một – P/v TTXVN), thời cơ vẫn chưa chín
muồi. Do đó, Đặng Tiểu Bình quyết định lợi dụng chức vụ phó chủ tịch
Quân uỷ Trung ương kiêm tổng tham mưu trưởng và sự tín nhiệm của phái
nguyên lão trong quân đội đối với mình để tìm kiến sự đột phá từ quân
đội. Đặng Tiểu Bình cho rằng cần thiết phải phát động một cuộc chiến
tranh chống lại “kẻ xâm lược”, thông qua chiến tranh để chuyển hướng đấu
tranh trong nước, tái cố kết sự đoàn kết dân tộc của người dân. Đặng
Tiểu Bình cũng muốn nhân cơ hội sau chiến tranh tiến hành điều chỉnh
nhân sự trong quân đội. Quả nhiên, sau chiến tranh Trung-Việt, Đặng Tiểu
Bình đã làm một cuộc “thay máu” đối với quân đội, đưa một loạt cán bộ
trẻ, cán bộ trung niên vào vị trí lãnh đạo. Có thể nói, tiến hành chiến
tranh là con đường nhanh nhất giúp Đặng Tiểu Bình xác lập quyền uy tuyệt
đối trong Đảng Cộng sản và quân đội Trung Quốc, đẩy mạnh thực hiện kế
hoạch cải cách mở cửa.
Ông Nghê cho rằng Trung Quốc đánh Việt
Nam là do Việt Nam đưa quân vào Campuchia và Trung Quốc ủng hộ Campuchia
chống lại Việt Nam. Ban đầu, Trung Quốc gọi đây là “phản kích tự vệ”
sau đó lại đổi thành “đánh trả”. Cuộc chiến tranh biên giới Trung-Việt,
theo ông Nghê, tuy đã khiến Việt Nam rút một phần quân khỏi Campuchia,
phá vỡ thế bao vây chiến lược của Liên Xô đối với Trung Quốc, làm rõ
quân bài chiến lược của Mỹ và Liên Xô, rèn luyện quân đội, nhưng kết quả
đạt được rất hạn chế: Không lấy được đất đai của Việt Nam, cũng không
lật đổ được chính quyền Việt Nam (nguyên văn là “tập đoàn thống trị Lê
Duẩn”). Và mặc dù các mục đích mà Quân uỷ Trung ương Trung Quốc đề ra cơ
bản đạt được, nhưng nếu xét về lợi ích chỉnh thể của quốc gia, cái hại
vẫn lớn hơn cái lợi. Tại sao vậy? Ông Nghê cho rằng trước tiên là cuộc
chiến tranh Trung-Việt đã được các nước phương Tây do Mỹ đứng đầu lấy
làm cái cớ để cô lập Trung Quốc. Hai là, việc Trung Quốc xuất binh tấn
công Việt Nam đã làm kinh động các nước Đông Nam Á. Ba là, cắt đứt quan
hệ giữa Trung Quốc với thế giới thứ ba, khiến Bắc Kinh rơi vào thế cô
lập. Bốn là, Trung Quốc mất đi uy tín trong xử lý quan hệ cấp quốc gia.
Năm là, chiến tranh Trung-Việt gây tổn thất nặng nề về mặt kinh tế cả
cho Việt Nam lẫn Trung Quốc.
Khi nói về trình tự tiến hành chiến
tranh, ông Nghê cho biết một cuộc chiến tranh tất yếu phải đi theo những
trình tự do pháp luật quy định. Trước đây, quan niệm pháp trị của người
Trung Quốc không cao và nó được biểu hiện trong một số cuộc chiến tranh
lớn. Ví dụ: Chiến tranh Triều Tiên chủ yếu do một mình Mao Trạch Đông
quyết định, Chiến tranh Trung-Việt chủ yếu do một mình Đặng Tiểu Bình
quyết định. Một người hoặc một vài người vội vàng quyết định tiến hành
chiến tranh, theo ông Nghê, khó có thể tránh khỏi việc quyết định đó
mang màu sắc tình cảm phiến diện, chủ quan của cá nhân, rất dễ phạm phải
sai lầm mang tính lịch sử và hậu quả cũng vô cùng đáng sợ.
Ông Nghê cho biết chiến tranh Trung-Việt
không những không được Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc (Quốc hội)
thảo luận thông qua, mà cũng không được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê
chuẩn. Theo ông Nghê, chiến tranh phải công khai với nhân dân, cho phép
nhân dân bày tỏ thái độ của mình. Nhân dân vốn là chủ nhân của đất nước,
nên có quyền được biết tình hình, có quyền được bày tỏ thái độ. Việc
nhân dân có thể bày tỏ thái độ một cách tự do đối với một cuộc chiến
tranh cũng có lợi cho việc ngăn ngừa một số cá nhân nào đó đi ngược lại ý
nguyện của đại đa số nhân dân, phát động chiến tranh.
Nguồn: TTXVN- VHNA