Người hiền phố Vạn Phúc
TCNV Online- Nhắc đến nhà văn Vũ Tú Nam ai cũng phải công nhận đó là một mẫu người hiền lành, đức độ và nhân hậu. Rất hiền đấy nhưng ông cũng rất nguyên tắc trong công việc và đời sống. Không dễ dãi khoan nhượng với cái xấu cái ác cái tiêu cực cũng là một nguyên tắc sống của ông. Điều này ngay từ thời trẻ, ngay cả ở Cuộc phiêu lưu của Văn ngan tướng công, tác phẩm khiến ông gặp nhiều sóng gió cũng đã thể hiện điều đó.
NGUYỄN TRÁC
Người hiền phố Vạn Phúc
Người hiền phố Vạn Phúc
Ông vẫn ngồi trong chiếc ghế bành lớn mà mỗi lần đến thăm tôi hay gặp. Gương mặt hồng hào, phúc hậu nhưng đã thêm nhiều dấu vết của tuổi già. Ông tuổi Kỉ Tỵ, sang năm nay (Quí Tị 2013) là đã 85.
Nghe tôi nói ra tết nghỉ hưu, ông hỏi luôn:
- Trác ra Hà Nội năm nào nhỉ?
- Dạ, đầu năm 1988.
- Thế là đã hơn 20 năm đấy. Hoàn thành nhiệm vụ. Không xuất sắc nhưng hoàn thành nhiệm vụ - Ông nói.
Chao ơi, được một bậc trưởng lão, một nhà văn đàn anh, một người từng là lãnh đạo cao nhất của Hội nhận xét và đánh giá như vậy hỏi sao tôi không sung sướng.
Sau buổi ấy, khoảng hơn tháng sau ông lại gọi điện cho tôi hỏi có khỏe không? Có đi đâu không? Có làm thêm gì không? Vợ con thế nào? Cháu bé thế nào và cuối cùng là nhắc nhở giờ đến lúc Trác phải viết... Thỉnh thoảng tôi vẫn gọi điện thoại hỏi thăm ông nhưng có khi số lần ông gọi cho tôi dạo ấy còn nhiều hơn số lần tôi gọi tới ông bà khiến tôi nhiều lúc ngượng và tự trách sự vô tâm của mình.
Một người đã tới “cõi”, tuổi vào bậc cha chú và suốt bao năm là sếp như ông lại quan tâm tới cấp dưới như tôi khiến tôi rất cảm động và biết ơn.
Nhắc đến nhà văn Vũ Tú Nam ai cũng phải công nhận đó là một mẫu người hiền lành, đức độ và nhân hậu. Rất hiền đấy nhưng ông cũng rất nguyên tắc trong công việc và đời sống. Không dễ dãi khoan nhượng với cái xấu cái ác cái tiêu cực cũng là một nguyên tắc sống của ông. Điều này ngay từ thời trẻ, ngay cả ở Cuộc phiêu lưu của Văn ngan tướng công, tác phẩm khiến ông gặp nhiều sóng gió cũng đã thể hiện điều đó.
Rút tôi ra Nhà xuất bản, dù biết tôi làm thơ là chính nhưng ông và Ban giám đốc lúc ấy lại đưa tôi về tổ văn xuôi trước khi về tổ thơ. Nhưng chính cái quyết định “ngặt nghèo” ấy của ông và sự tận tình của nhà thơ Ngô Văn Phú - lúc ấy là trưởng phòng văn xuôi - đã giúp tôi trưởng thành rất nhiều trong nghề nghiệp. Một trong hai tập truyện ngắn đầu tiên mà tôi được giao chọn và biên tập với nhiều kỉ niệm lý thú là cuốn Con thú bị ruồng bỏ của nhà văn tài hoa lận đận Nguyễn Dậu. Sau đó là cuốn Chuyện như đùa của nhà văn Mai Ngữ - một người khá kĩ tính. Đó cũng là những thử thách đầu tiên trong nghề biên tập với tôi khi ra Hà Nội.
Sau này, khi được giao tờ Tạp chí Nhà văn, khá nhiều lần khi cần bài vở kịp thời hoặc những ý kiến có tính nguyên tắc, có sức nặng trước một vấn đề xã hội hay văn học nào đó là tôi lại nhờ đến sự giúp đỡ của ông và chẳng bao giờ ông từ chối. Dù ông vốn không phải là người thích cao đàm khoát luận. Ông luôn ưa sự lặng lẽ. Ở ông vừa có sự thông cảm bao dung của người trên lại vừa có sự tận tâm chỉ bảo của người thầy giáo với học trò.
Có sách mới tôi phải biếu ông đã đành nhưng hầu như ông - và cả bà Thanh Hương - ra sách mới ông bà cũng đều cho tôi với dòng chữ “Thân mến tặng Nguyễn Trác và Gia đình” cùng một chữ ký chân phương quen thuộc. Khi trò chuyện với tôi ông cũng thường hay xưng “mình” một cách rất thân mật.
Ông là người viết nhiều ngay cả lúc còn đang làm quản lý đến khi đã nghỉ hưu.
Đến nay ông đã có 32 đầu sách cả văn xuôi, thơ, hồi ức,nghiên cứu phê bình văn học, 8 đầu sách dịch và 30 tác phẩm cho thiếu nhi. Sống với thời gian hai chiều, Mùa xuân - tiếng chim, Người đàn bà kì dị, Chim đêm, Chuyện phiêu lưu của Văn ngan tướng công... là những tác phẩm của ông đã được tái bản nhiều lần và được dịch ra tiếng Nga, tiếng Anh. Bản thân ông cũng dịch thơ văn của nhiều tác giả nước ngoài sang tiếng Việt như truyện Andersen, thơ Cristo Bôtep, Bagriana, thơ Bungari, thơ Ixaren...
Tôi không đọc được hết các tác phẩm của ông nhưng những gì đã đọc đều để lại ấn tượng sâu đậm. Đó là những tác phẩm luôn gắn bó với cách mạng và hàm chứa một trữ lượng lớn về cuộc sống và tình yêu sâu sắc con người, tình yêu thiên nhiên đất nước, tình yêu thương những con vật nhỏ bé bằng tấm lòng sáng trong nhân hậu. Không lộng lẫy kiêu sa hay ào ạt dữ dội, những trang văn của ông luôn bình dị, nồng ấm và lặng lẽ thấm vào bạn đọc như tính cách con người ông.
Sống với thời gian hai chiều là câu chuyện xoay quanh cuộc đời ông An qua mối liên hệ số phận với những người thân yêu trong gia đình và dòng tộc, nhất là với bà Ngàn, người vợ đầu của ông do gia đình ép cưới từ khi ông còn rất trẻ.
Những chuyện ép hôn như vậy trong xã hội Việt Nam trước đây rất nhiều. Sống với thời gian hai chiều không khai thác những éo le bi kịch gia đình do hôn nhân không tình yêu mà khai thác khía cạnh tình yêu giữa con người với con người thể hiện qua lòng vị tha, đức hy sinh, ý thức trách nhiệm và sự quan tâm lẫn nhau trong cuộc sống. Sống yên thân trong tổ kén của mình hay sống yêu thương và có trách nhiệm là vấn đề truyện ngắn này đặt ra (*).
Bà Ngàn là một nhân vật khá đặc biệt, nếu xét trên quan niệm thời nay, dễ bị cho là gàn dở, không thức thời nhưng đó là một nhân vật có lòng thủy chung, lòng vị tha và tâm hồn thật đẹp. Tính nhân văn, tính thời sự của câu chuyện do vậy càng trở nên sâu sắc khi mà hôm nay con người mỗi ngày hình như càng trở nên vô cảm trước nỗi đau đồng loại, khi mà lòng biết ơn đang cạn kiệt trong nhiều con tim khối óc, kể cả ở lớp trẻ. Khi mà tính thực dụng bị thay thế cho sự vô tư và lòng chung thủy .
Cùng Sống với thời gian hai chiều là Mùa xuân tiếng chim, một truyện ngắn cũng viết năm 1982. Đây là hai truyện ngắn vào loại hay nhất của ông. Nếu Sống với thời gian hai chiều còn có vẻ luận đề ,phảng phất triết lí thì Mùa xuân tiếng chim lại đầy chất thơ và với một kết cấu mở. Nhưng ẩn sau vẻ “không tải” ấy người đọc vẫn có thể tìm ra những thông điệp mà tác giả gửi gắm. Tại sao đôi trai gái trong truyện thực sự yêu nhau và muốn gắn bó với nhau lâu dài mà họ lại không thể nên vợ nên chồng? Tại sao bà mẹ trong truyện biết con trai mình và Thu yêu nhau lại không giữ Thu cho con mà trao cho Quyền - một chàng trai dù rất tốt - nhưng Thu không yêu khiến con trai bà mấy chục năm sau “vẫn nằm giường cá nhân, nghĩa là vẫn “vô sản” như xưa”? Câu chuyện càng về cuối càng day dứt vời vợi tiếng chim gọi vịt khi xa khi gần như “tiếng ai gọi ai”, như một nỗi đau không bao giờ dứt. Một câu chuyện tình đẹp nhưng buồn và có vẻ như mang một cái kết không có hậu! Phải chăng vì người mẹ “sợ” mang tiếng với xóm làng, cô gái “sợ” làm phiền bà mẹ, người mà cô phải mang ơn rất nhiều, chàng trai “sợ” trái ý mẹ mà họ đều đã hành xử trái với lòng mình? Sống ích kỉ, sống chỉ biết có mình là điều từ xưa đến nay luôn bị lên án. Nhưng không dám sống cho mình, không biết đấu tranh cho tình yêu hạnh phúc chính đáng của mình thì chắc chắn cũng không phải là điều hay. Nhất là trong thời đại mới. Phải chăng đấy chính là thông điệp và là cái “có hậu” của tác phẩm chứ không phải để cho đôi trai gái thành vợ thành chồng thông thường như các tác phẩm dân gian xưa mới là có hậu.
Cái tâm và cái tầm của nhà văn Vũ Tú Nam tôi nghĩ nằm trong những sáng tác với chủ đề lớn vừa muôn thuở vừa cập nhật như vậy của ông.
Bên cạnh hai truyện ngắn nổi tiếng trên tôi còn được đọc nhiều truyện ngắn khác của ông như Chim đêm, Ông Bồng, Con dế vô tư hayNgười đàn bà kì dị v.v... Nếu Chim đêm là một truyện ngắn dụng công, lạ ở ngôn ngữ và những tương phản của chi tiết, hình ảnh thì Ông Bồng lại dân dã, mang nhiều hơi thở báo chí nhưng vẫn không kém sự thâm trầm. Nó nhắc người đọc nhớ tới buổi đầu của thời kì xây dựng đất nước ta vừa thật đẹp mà cũng vừa thật hồn nhiên đơn giản. Còn Người đàn kì dị lại đầy nhân bản trong khi Con dế vô tư như một tản văn ngắn đẹp, cảm động và giàu những ngẫm ngợi...
Tâm sự về nghề có lần nhà văn Vũ Tú Nam nói: “Giúp cho con người có đời sống nội tâm giàu có, tự mình có thể phân biệt được cái thiện và cái ác, cái thật và cái giả, cái đẹp và cái xấu, tự giác điều chỉnh được mọi hành vi của mình, đó là nhiệm vụ cao cả của văn học. Tôi luôn cố gắng làm theo hướng đó”. Và bởi vậy những trang văn của ông luôn hướng thiện.
Tính hướng thiện cùng sự tinh tế nhân hậu còn đậm đà ở mảng truyện viết cho thiếu nhi của ông với các tác phẩm như Cuộc phiêu lưu của Văn ngan tướng công; Tiếng ve ran; Chuyện Ly và Đốm v.v... mà tôi chưa có điều kiện đề cập ở bài viết ngắn này. Có rất nhiều loài vật đáng yêu với trẻ con đã trở thành nhân vật văn học trong sách viết cho thiếu nhi của ông như dế, ve, ngan ngỗng, chú chó mồ côi, cô ốc sên công chúa, con chim én mùa xuân... Ông vẫn nói: “Một đứa trẻ biết thương yêu loài vật thì không thể tàn ác với con người”.
Gìà dặn thâm trầm và sâu sắc nhưng ông cũng là người hóm hỉnh, trẻ trung. Tôi nhớ ông có một bài thơ ngắn chỉ ba câu viết khi đã qua tuổi 70. Bài thơ có cái tên khá đặc biệt là Ế:
Ông mua nốt cho con hai quả tim này đi!
Tôi còn ế một trái tim trong ngực !
Cô hàng thịt cười ông lão ngẩn ngơ.
Giống như văn, thơ ông đứng chung trong dòng thơ phản ánh hiện thực, đằm thắm yêu thương, hồn hậu trong sáng và nhuần nhị trong những hình thức thi ca dân tộc:
Con chim khuyên nhớ vườn
Hoa mướp vàng nhớ nắng
Gió mát nhớ hương sen
Ta nhớ quê nhớ lắm
Mồng tơi ơi mồng tơi
Ông viết thơ tình không nhiều nhưng có một đặc điểm rất rõ trong thơ tình của ông là từ trái tim yêu thương của hai cá thể nó luôn được mở rộng ra với cuộc đời rộng lớn và cả với không gian và thời gian vĩnh hằng:
Chao, được sống những ngày em sống
Được theo em đến chốn vô cùng
Được hóa đá bên chân em anh đứng
Được ngóng trời xanh qua dáng thông
(Gửi em)
Bên cạnh thơ tình là mảng thơ thế sự, bút pháp hiện đại mang nặng nỗi niềm trăn trở với cuộc đời, với cái đẹp thông qua những ẩn dụ và những hình ảnh thi ca lãng mạn:
Ngồi trước bông quỳnh rắp tâm chờ ngắm nở
Ta mỏi mệt quá thiếp đi lúc nào không hay
Khuya, chợt tỉnh giấc, hoa đã rũ tàn
(Hoa quỳnh)
Nhiều, có khi là rất nhiều bông hoa đã phải nở trong cô đơn vì thiếu người tri kỉ như bông hoa quỳnh đêm ấy. Người thơ ân hận nuối tiếc và hoa cũng buồn mà rũ xuống. Câu thơ trở nên ngậm ngùi:
Ta không đợi được hoa
Hoa chẳng chờ nổi ta
Rồi như một con ong cần mẫn trở lại với cuộc đời, với bút pháp truyền thống nhà thơ ước ao cầu nguyện:
Bao giờ đời đẹp hơn thơ
Bao giờ thơ mộc như là đời đây
Mật hương lòng mãi chẳng đầy
Con ong rạc cánh vẫn bay đi tìm
(Như con ong)
Đến nay ông đã có 4 tập thơ được xuất bản. Mới nhất, năm 2009 là tập Túc tắc. Tư thế nhà thơ ở Túc tắc là tư thế của một người lão thực. Bình tĩnh, tự tin và pha chút cợt đùa:
Túc tắc sống / Ngày tiếp ngày
Túc tắc say / Từng phút giây
Tới khi nao / Buông tay bút
Trời xanh ngút / Túc tắc bay...
Và ông vẫn “ túc tắc” viết, “túc tắc’’ đến dự các diễn đàn văn học hay lễ kỉ niệm các nhà văn nhà thơ. Túc tắc gắn bó với đời sống. Túc tắc một cách say mê và bền bỉ.
Thỉnh thoảng đến thăm ông tôi cũng được gặp gỡ và quen biết thêm nhiều nhà văn nhà thơ khác như chị Lady Borton, anh Huy Phương... Nhưng thú vị hơn có lẽ là đến thăm ông tôi được hiểu thêm nhiều nhà văn nhà thơ quanh mình qua những nhận xét sắc sảo và hóm hỉnh của ông. Đó là nét “thất thường” của nhà văn này hay tính “nông dân” của nhà thơ nọ. Hồi Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ V có một nhà văn trẻ - phần háo danh phần muốn “lấy điểm” cùng một nhà văn khác - đã phát biểu quá khích và bất công về ông khiến tôi và nhiều bạn bè phản đối. Sau đại hội, đến thăm ông tôi có hỏi ông nghĩ sao về những lời lẽ bất nhã ấy thì ông nói ông đã quên và tiện thể nhắc tôi: Sống ở đời nên giữ một cái tâm trong sáng.
Và tôi đã cố học ở ông điều ấy dù không phải bao giờ cũng học được.
Hồi ở Đà Nẵng, từ nhà tôi chỉ mấy bước chân là tới nhà anh Phan Tứ nên tôi cũng hay sang thăm anh và có khi còn ngồi xem anh làm một số việc vặt trong gia đình như sửa ống nước hay thay một viên gạch vỡ ngoài sân. Tính tỉ mỉ, cẩn thận trong đời sống cũng như trong ghi chép, sáng tác của nhà văn Phan Tứ là điều khiến nhiều anh em nhà văn nhà thơ ở Đà Nẵng rất khâm phục. Về Hà Nội tôi lại gặp những đức tính ấy ở nhà văn Vũ Tú Nam trong đời sống và tác phẩm. Đọc Qua những chặng đường cuốn sách gồm nhiều hồi ức, nhật kí, phê bình tiểu luận, trao đổi nghề nghiệp... của ông chắc nhiều bạn trẻ cũng như tôi sẽ hiểu thêm về công phu lao động nhà văn. Chỉ nội những ghi chép giá cả ở một chợ quê ngày 29 tết năm 1962 hay chi tiết nhà thơ Hoàng Trung Thông mua phải con gà rù cứ kì kèo mãi để trả lại cũng đã cho ta nhiều liên tưởng thú vị.
Gừng càng già càng cay, ngoài thơ và truyện, những tản văn - ý kiến ngắn của ông cũng không kém phần sâu sắc và độc đáo. Lớp người già và nhiều độc giả cả nước mấy năm gần đây hay nhắc đến bài Đảng viên hư trước làng nước hư theo của ông đăng trên báo Người cao tuổi năm 2011 hay loạt bài Nhân cách nhà văn (Văn Nghệ 12-5-2012), Trung Quốc hôm nay cần có Lỗ Tấn cũng trên báo Văn Nghệ gần đây...
Văn chương kĩ càng và chăm chút vậy nhưng cuộc sống ông lại rất giản dị.
Hàng chục năm trước khi chuyển về Khu Hội đồng Bộ trưởng, cả gia đình ông đã sống chỉ trong một căn phòng khoảng 40m2 trên gác 2 ngôi nhà 65 Nguyễn Thái Học. Đấy là một biệt thự cũ thời Tây sau hòa bình được cải tạo thành chung cư cho nhiều gia đình văn nghệ sĩ như Văn Giáo, Mai Văn Hiến, Huỳnh Văn Gấm, Đỗ Nhuận, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng v.v... Tôi đã từng đến đây và nhiều lần leo lên chiếc cầu thang bằng granito cũ kĩ có tay vịn gỗ trong tranh tối tranh sáng để vào nhà ông. Sau này khi biết cả hai ông bà vốn xuất thân từ gia đình nho học, sống thanh bạch, không ưa đua chen danh lợi và quí sự giản dị thì tôi càng cảm phục. Cũng chính ở căn gác nhỏ ấy có tối tôi đến khi ông vừa xem xong ti vi có tin của một đài nước ngoài quay cảnh xe tăng đàn áp sinh viên trên Quảng trường Thiên An Môn. Ông đã lặng đi rồi kể lại thêm cho tôi khi thấy tôi chỉ kịp xem vài giây cuối cùng những hình ảnh dã man ấy. Và tôi cũng đã lặng theo.
Nhưng rời Nguyễn Thái Học về Vạn Bảo, Khu HĐBT sau này - nghe thì oách - nhưng bên ngoài cửa, nhất là lối vào vẫn bịt bùng với chiếc trần thấp đè nặng lên đầu và chẳng khác gì những chung cư khác. Rồi, “ở hiền gặp lành”, tự nhiên sau nhà ông lại mở con đường lớn mang tên Vạn Phúc. Nhà ông thành nhà mặt đường. Tất nhiên với ông chả cần gì, chả quan trọng gì chuyện nhà mặt đường mặt phố nhưng tuổi già ông lại được đối diện với một không gian mới rộng mở và thoáng đãng.
Vâng, tôi luôn nhớ đến ông với lời khuyên sống ở đời chữ tâm mới là quan trọng. Hiền là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Phải có tâm. Khi có tâm người ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, bao dung hơn và có quyền sống rất thanh thản.
Lúc tôi ra về, như nhiều lần khác nhà văn Thanh Hương lại xuống cây khế ngọt dưới sân hái ít quả bảo mang về cho cô ấy và cháu. “Cô ấy” đây là vợ tôi còn cháu là đứa cháu nội tôi mà ông bà hay hỏi thăm nhất là từ khi bố mẹ nó xa nhau. Tôi cứ muốn gọi cả hai ông bà là những người hiền ở phố Vạn Phúc.
Long Biên tháng 5-2011
Viết thêm và sửa chữa tháng 12-2012
N.T
Viết thêm và sửa chữa tháng 12-2012
N.T